Cái tôi – Tiềm năng của sự sáng tạo trong nghệ thuật
Theo tôi vấn đề lý luận phê bình có một phần trách nhiệm. Chúng ta chưa có những nhà nghiên cứu, cũng như những cơ sở lý luận phê bình nhiếp ảnh đúng tầm vóc và đi trước một bước. Một thời gian dài nhiếp ảnh của chúng ta lấy tiêu chí là cái đẹp. Cái đẹp được đánh giá cao nhất, còn cá tính, phong cách riêng hay những tố chất thuộc về cá nhân thì không được coi trọng. Vì vậy mà nhiều bức ảnh sản sinh ra na ná giống nhau theo một khuôn mẫu. Có một nhà phê bình người Mỹ khi xem một phòng ảnh triển lãm về chân dung các bà mẹ Việt Nam, khi được hỏi đã nhận định rằng: Ảnh của các bạn đẹp về mặt hình thức, nhưng xem xong tôi có cảm giác rằng các bạn có một bà mẹ chung chia đều cho tất cả các bà mẹ. Ngược lại ở đất nước chúng tôi có rất nhiều bà mẹ khác nhau làm lên chân dung một bà mẹ. Điều này một phần nói lên rằng nhiếp ảnh của chúng ta không có cái tôi, cái riêng biệt. Hầu hết các nhà nhiếp ảnh của chúng ta làm theo, gắn chặt với những gì được thừa nhận hơn là tìm cách diễn tả và khám phá. Các nhà nhiếp ảnh của chúng ta say sưa đi tìm hình mẫu, lo lắng sắp xếp, tạo hình trong những bố cục được các nhà thẩm định ưa chuộng. Họ là ai, đa số là những người cầm máy có kinh nghiệm nhưng thiếu kiến thức chính thống và tri thức trong lĩnh vực nhiếp ảnh. Khi xem ảnh người ta nhận ngay ra một điều là nhiều bức ảnh chụp thật mà xem ra như không thật. Một sự cảm nhận về sự sắp xếp luôn tồn tại trong ảnh, mà hình ảnh được dàn dựng theo tiêu chí của cuộc thi đặt ra. Một trào lưu như vậy tạo ra hàng loạt những bức ảnh vô hồn và trùng lặp, thiếu cá tính. Cũng vì thế mà nhiều cuộc thi ảnh người ta nghiên cứu ban giám khảo hơn là nghiên cứu đề tài và chủ đề thể hiện. Những cuộc săn lùng giải thưởng cũng diễn ra từ lí do này.
Tuy nhiên hiện nay đã có nhiều nhà nhiếp ảnh trẻ (tôi nói nhà nhiếp ảnh trẻ chứ không phải người chụp ảnh ít tuổi) đã xa rời và không lệ thuộc vào những giải thưởng để giữ phong cách và cái tôi trong nhiếp ảnh của giải mình. Họ xa rời những giải thưởng thiếu tính chuyên nghiệp, đi tìm cái riêng biệt của mình trong cách thể hiện. Ở đây ai cũng hiểu rằng nhiếp ảnh là nghệ thuật của khoảnh khắc. Một cú bấm máy là cố định một giây lát thoáng qua, nắm bắt cái quá khứ để biến nó trở thành vĩnh cửu. Hơn thế nữa nhiếp ảnh còn là nghệ thuật của cái nhìn, mỗi khoảnh khắc trong cái nhìn thành một riêng tư, chứa đựng cái chủ quan hay cái tôi của tác giả.
Trong triết học “cái tôi” được hiểu là cái tôi ý thức hay đơn giản là cái tôi bao hàm trong đó những đặc tính dễ phân biệt với những cá nhân khác, không phải là mình. Cái tôi là phần cốt lõi của tính cách liên quan tới thực tại và chịu ảnh hưởng của tác động xã hội, được hình thành ngay từ khi con người sinh ra và qua tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Phép biện chứng duy vật cho rằng cái riêng, cái chung đều tồn tại khách quan và có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Còn cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc điểm tồn tại trong cái chung, cái riêng còn có những đặc điểm riêng biệt mà chỉ riêng nó có. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì nó phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy, cái chung là cái gắn liền với cái bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái riêng. Cái riêng và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật. Sự chuyển hóa cái riêng thành cái chung là biểu hiện của tiến trình phát triển đi lên. Ngược lại là biểu hiện của quá trình đi xuống, của cái lỗi thời. Mặt khác cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, nên bất kỳ cái chung nào khi áp dụng vào trường hợp riêng cũng cần được chú ý đến các đặc điểm cụ thể, nếu không sẽ rơi vào rập khuôn, sáo mòn mà không có sáng tạo. Dựa vào phép biện chứng này cũng đủ hiểu được vì sao hiện nay ảnh của chúng ta ít sáng tạo và đều được sản xuất theo một khuôn mẫu không mới.
Ai cũng biết rằng nhiếp ảnh liên quan tới khoa học nên nó đòi hỏi tính tỉ mỉ và nghiêm túc, mặt khác nhiếp ảnh là một môn nghệ thuật nên nó phụ thuộc rất nhiều vào tư duy sáng tạo của người cầm máy. Vì vậy nó mang trong mình cái tôi cá tính. Lĩnh hội điều này, những nhà nhiếp ảnh đương đại không hoàn toàn sống trong sự ràng buộc cứng nhắc của chủ nghĩa hiện thực, bởi sự đòi hỏi sáng tạo trong nghệ thuật. Cái nhìn của nhà nhiếp ảnh dù vẫn dựa trên hiện thực của cuộc sống nhưng lại thông qua cái vẻ ngoài khác nhau của sự việc đầy ấn tượng. Việc thể hiện chính xác các chi tiết bây giờ không phải là những tiêu chí duy nhất, mà nó hướng theo sở thích, óc tưởng tượng của người cầm máy. Và cũng chính vì thế mà các chủ đề được thể hiện trong nhiếp ảnh phong phú hơn và giầu chất trí tuệ hơn. Bằng sự sáng tạo và tâm hồn nhạy cảm, người ta đã tìm ra “sức hấp dẫn lạ kỳ của những búp non trên thân cây già cỗi để nói lên tính bi kịch của cây cổ thụ và tính trữ tình của búp non xanh”.
Con đường đi lên của nhiếp ảnh là con đường đi lên không ngừng tìm kiếm. Mặc dù môn nghệ thuật nào cũng có lề luật của nó, nhưng đơn giản vì nhiếp ảnh là một bộ môn nghệ thuật luôn luôn phát triển và những gì mà chúng ta nghĩ rằng nó là tiêu chuẩn của ngày hôm nay thì ngày mai nó đã trở thành lạc hậu, trở thành quá khứ. Nghệ thuật nhiếp ảnh cũng như những môn nghệ thuật khác phải tự giải thoát mình khỏi các quy ước, các luật lệ, những qui ước đã bắt đầu bó buộc và giới hạn nhiếp ảnh, và sử dụng cho mình sự tự do thể hiện mà bất cứ bộ môn nghệ thuật nào cũng phải có để tồn tại!
Có thể lấy quan niệm về nhiếp ảnh của nhà nhiếp ảnh nổi tiếng H.C.Brét-xong vừa có tính chất tổng kết lại vừa có tính chất gợi mở: Nhiếp ảnh là một hình thức thể hiện của ý thức và trí tuệ nhằm diễn đạt Thế giới khách quan thành những khái niệm nhìn thấy được. Bởi vậy họ là những người khám phá, phát hiện chứ không phải là những người sao chép hiện thực, những nhà sản xuất ảnh. Trong nhiếp ảnh bố cục là một vấn đề quan trọng. Trong giới nhiếp ảnh người ta quan tâm nhiều tới bố cục, đến những đường nét chủ đạo, điểm vàng, tam giác mạnh, điểm nhấn cả sức căng…Vâng đúng. Nhưng với bố cục chúng ta chỉ nhìn thấy được hình thức của nghệ thuật. Mà điều quan trọng của nghệ thuật lại là nội dung bên trong của hình thức. Mà nội dung bên trong lại phụ thuộc vào cái nhìn, tức là phụ thuộc vào kiến thức và tình cảm của người cầm máy. Điều đó cũng có nghĩa là phụ thuộc nhiều vào cá nhân tác giả.
Hiểu được bản chất của cái tôi trong nhiếp ảnh không đơn giản, để có được cái tôi trong nhiếp ảnh lại càng khó khăn hơn nhiều. Cái tôi ở đây không phải là cái cá nhân, cái bảo thủ của mỗi con người , mà là cá tính, tâm hồn, tài năng và bản lĩnh riêng của mỗi nhà cầm máy. Muốn có được cái tôi, trước hết đòi hỏi người cầm máy phải có chính kiến, có bản lĩnh, kiến thức và phương pháp tiếp cận riêng với cuộc sống, không phải là một kẻ a dua, càng không phải là một người đi sao chép lại thực tế trần trụi. Thể hiện cái tôi trong nghệ thuật là thể hiện lòng tự tin, sự hiểu biết và dám chịu trách nhiệm với chính mình. Tôi lấy một ví dụ khi phê bình, nhận xét nhau người ta thường nói rằng: Người ta nói anh (chị) thế này hay thế kia…Người ta hay dựa vào những cái không thuộc về mình để không mất lòng, không dám chịu trách nhiệm về một chính kiến. Cách bộc lộ này ảnh hưởng trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy cái tôi là bản lĩnh là tài năng, là sự sáng tạo trong mỗi cá nhân người cầm máy cần phải thể hiện. Điều này rất cần thiết trong nhiếp ảnh, bởi nhiếp ảnh cũng giống như hội họa, nó được hiểu như một cách nhìn nhận thế giới xung quanh một cách sáng tạo và độc đáo, một hướng sáng tạo mới của một cá nhân hay một tập thể, một cách hướng người ta tới cái đẹp hoàn mỹ của tâm hồn, một cách phản ánh cuộc sống sinh động nhất.
Thế kỷ 21 là thế kỷ thông tin, là sự biến hoá lớn lao của cuộc sống nhân loại, tức là một thế giới thực tại đến một thế giới hư ảo nhờ kỹ thuật số hoá. Những nhà nhiếp ảnh theo khuynh hướng trừu tượng vớ lấy như một bảo bối để diễn tả ý tưởng của mình trên không gian hai chiều của ảnh. Mọi vật chúng ta nhìn, nghĩ, gặp, đều có thể thực hiện được bằng số hoá trên máy tính, thậm chí thế giới hư ảo còn được gọi là “không gian sáng tạo” của nhân loại. Nhà nhiếp ảnh Mỹ Mai Cơn Tu-oen nói: Việc làm của tôi hầu như chưa hề thấy và biết trước. Biến không thành có là một chân lý, săn tìm cái mới là một điều thú vị. Còn ông Khơ-lit-Stinh, nhiếp ảnh gia người Thuỵ sỹ thì cho rằng: Những cái đằng sau sự kiện mới là điều quan trọng.
Nhưng dường như tính sáng tạo trong nhiếp ảnh khác với tính sáng tạo trong hội hoạ, bởi nhiếp ảnh sáng tạo nhưng vẫn trung thành với hiện thực. Người ta không hoàn toàn hài lòng với việc sử dụng quá nhiều phần mềm photoshof trong quá trình tạo ảnh. Đồng thời người ta vẫn muốn giãi bày lòng mình trước cái nhìn thực tế theo cách hiểu và diễn đạt mang đầy cá tính riêng không như những cái nhìn thông thường. Để đáp ứng nguyện vọng này, một khuynh hướng nhiếp ảnh mới ra đời mang nhiều cá tính đậm dấu ấn của cái tôi – Đó là dòng nhiếp ảnh ý niệm: Tức là người ta nhìn và diễn tả thế giới quanh theo ý niệm riêng của mình.
Beat Presser, nhà nhiếp ảnh Thụy sỹ với chủ đề “Ốc đảo tĩnh lặng của tôi” đã khuyến khích người tham gia mở rộng tâm trí và con tim để nhìn thế giới của họ bằng một thứ ánh sáng khác, với những ý tưởng, dưới nhiều góc độ khác nhau, dù đó là thế giới của sự chuyển động hay sự tĩnh lặng của chính mình. Một phút tĩnh lặng đủ để ta cảm nhận được vẻ đẹp và sự cao cả từ cuộc sống của những người khác cũng như sự kì vĩ của thế giới đầy sức mạnh. Điều này cũng dễ hiểu: có những lúc ta đứng giữ đám đông mà vẫn cảm thấy cô đơn, có những lúc chỉ một mình ta đối chất với thế giới mà vẫn tràn đầy hương vị và sắc màu. Người cầm máy đương đại đang nỗ lực để đạt tới và phát hiện lên những ẩn ý nằm khuất sâu dưới cái khía cạnh hữu hình. Nó mang lại khả năng có thể nhận biết thế giới đa chiều và bí ẩn quanh mình, phát hiện ra những bộ dạng và biến đổi khác nhau của đối tượng dưới tác động của tình cảm hay cảm xúc để tạo nên một tác phẩm hoàn chỉnh. Một nhà nhiếp ảnh người Đức gốc Việt đã có một triển làm ảnh ở nhiều nước trên thế giới mà hầu hết những bức ảnh điểm nét rất hạn chế. Ở đây người ta hiểu được rằng nhà nhiếp ảnh diễn tả thế giới quanh mình trong cái nhìn và tâm trạng của một người dân ngụ cư: “Mọi thứ quanh tôi đâu phải là của tôi”. Cái nhìn riêng, tâm trạng riêng của một con người sống không phải trên mảnh đất tổ quốc mình là như vậy. Cái riêng đó được đánh giá và chấp nhận trong tâm trạng chung của hàng trăm triệu người dân ngụ cư trên thế giới này.
Giáo sư Koepfer (nhà LLPB mỹ thuật người Đức) có nói: Trong quá trình phát triển của nghệ thuật, với một xã hội phát triển cao, đa tầng, đa cấp thì trường phái cũ như hiện thực và ấn tượng không thể đáp ứng được đã tạo ra một mảnh đất màu mỡ cho trừu tượng cũng như siêu thực phát triển. Hơn một trăm năm trước, nhiếp ảnh “khiêu chiến” với hội hoạ về ghi thực. Một trăm năm sau hội hoạ lại “khiêu chiến” với nhiếp ảnh về siêu thực. Bởi vậy giữa Hội hoạ và Nhiếp ảnh luôn có sự chuyển hoán: Đối với nhiếp ảnh cổ mà nói, bản chất nhiếp ảnh là “ghi thực”, vậy đối với nhiếp ảnh hiện đại mà nói, phải chăng bản chất của nhiếp ảnh là “cá tính hoá sáng tạo hình tượng”, còn đối với nhiếp ảnh hậu hiện đại, bản chất của nhiếp ảnh phải là “kết cấu tổng hợp hoá hình tượng, vừa thực vừa hư”. Một khi phương thức sinh tồn của nhân loại đổi mới, phương pháp tư duy cũng đổi mới, thì quan niệm nhiếp ảnh cũng không thể không đổi mới. Đương nhiên, đổi mới không phải là vứt bỏ cái cũ, mà là ứng biến tính kế thừa giữa cũ và mới.
Tôi hoàn toàn đồng tình với ông Trưởng ban Lý luận phê bình của Hội Nghệ sỹ Nhiếp ảnh Việt Nam khi nói rằng: Phát huy sáng tạo cá nhân trong nhiếp ảnh là một nhu cầu thực sự. Chấp nhận đa phong cách là chấp nhận những dấu ấn mạnh mẽ của cá nhân trong sáng tạo nghệ thuật. Nếu không có những cá tính trong nhiếp ảnh thì không thể phát triển nghệ thuật nhiếp ảnh một cách thực sự. Bởi lẽ “cái tôi” mang tính chủ động và năng động trong thời đại mới. Cái tôi giàu cá tính và đa dạng cách nhìn. Phát huy được cái tôi là khơi dây cả một tiềm năng sáng tạo của người nghệ sỹ cầm máy ảnh.